Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2013

English pronunciation in use- Mark Hancock

Đọc được bài viết này trên face nên vọc nhanh kẻo nguội
"
[IELTS SPEAKING - Beginner]
KINH NGHIỆM HỌC SPEAKING CỦA DÂN CHUYÊN LÍ NHÉ BẠN!

Mình xin trích nguyên văn kinh nghiệm của bạn ấy:""sách: english pronunciation in use + đĩa của họ. đọc đi đọc lại tất cả các chữ được viết ra của 1 lesson (2 trang giấy a5) tầm 10-20 lần 1 ngày, liên tục trong 3 tháng, mỗi ngày học 1 lesson (sách có 60 lessons) để biết cách phát âm đúng của từng âm và biết intonation. trong quá trình này thì tập khoa chân múa tay body language, đi trên đường hay trước khi lên giường hay lúc thơ thẩn nào đó thì tự kỉ bằng cách nói tiếng anh vs mình. mỗi khi học từ mới phải học cả cách phát âm đúng của từ (cái phiên âm trong từ điển) và cố nói cho đúng. xong r thì kết hợp nghe bài dài hơn (sách listen in 2,3) sau đó nữa thì nghe mấy cái xịn như TED vs cnn để biết âm điệu khi nói của ng bản ngữ ntn. "

TÓM LẠI, thì mình đã cho vào sổ tay những mục sau:
- Tài liệu: English pronunciation in use +CD, Listen (quyển 2,3), TED+CNN
- Cách thức: + Đọc, to rõ ràng các từ rồi đến các câu cho chuẩn giống băng+body language
+ Tự nói tiếng Anh với mình, lúc thơ thẩn, ngẩn ngơ lúc lên giường đi ngủ.

Các bạn khối A mà bắt đầu học thử xem có tác dụng không nhé!"
Và đây là bộ sách và audio, bạn nào lười đi săn sách thì in thôi nào! Let't go, Mickey  Mouse!
Link full:
http://www.mediafire.com/?8n17nhdz8f33o

Thứ Sáu, 12 tháng 4, 2013

10 lưu ý cho một trang web tốt

Một trang web tốt của một công ty hay một trang bất kỳ bao giờ cũng có những điểm thu hút riêng tạo nên giá trị của nó. Vài điểm rút ra được từ slide: luôn phải để đầy đủ danh sách sản phẩm, không ngại nhận góp ý của người đọc, gửi đến người xem thông điệp về sản phẩm hay văn hóa hay sứ mệnh của công ty ngay từ cái nhìn đầu tiên, tất nhiên là cập nhật thông tin hoạt động và khuyến khích thành viên truy cập. Nào hãy bắt đầu thêm hình ảnh, Cập nhật tình hình và thêm đầy đủ sản phẩm.


Thêm một slide vô cùng kêu WTF!



Thuyết trình thuyết phục

Hôm nay vừa cùng các bạn trải nghiệm một bài thuyết trình thấy rằng mình chưa đạt được những kỹ năng cần thiết thì tối đọc được slide này, quả là chỉ riêng ngôn từ thôi cũng lắm chuyện phải bàn. Nào bắt tay vào tìm hiểu thôi:



Thứ Năm, 11 tháng 4, 2013

Các hàm cơ bản trong excel


1. Các hàm thống kê.
1.1. Hàm SUM: Tính tổng
- Cú pháp =SUM(Danh sách đối số)
- Ví dụ       =SUM(C5:C10)
=SUM(C5:C10,B5:B10)
1.2. Hàm AVERAGE: Tính trung bình cộng
- Cú pháp = AVERAGE(Danh sách đối số)
- Ví dụ       = AVERAGE(C5:C10)
= AVERAGE(C5:C10,B5:B10)
1.3. Hàm MIN: Tính giá trị nhỏ nhất
- Cú pháp = MIN(Danh sách đối số)
-Ví dụ        = MIN(C5:C10)
= MIN(C5:C10,B5:B10)
1.4. Hàm MAX: Tính giá trị lớn nhất
- Cú pháp = MAX(Dánh sách đối số)
-Ví dụ        = MAX(C5:C10)
= MAX(C5:C10,B5:B10)
1.5. Hàm RANK: Xếp số thứ tự
- Cú pháp = RANK(X,Danh sách đối số)
-Ví dụ        = RANK(C5,C5:C10)
Chú ý Danh sách giá trị tuyệt đối có thể để ở địa chỉ tuyệt đối.
1.6. Hàm COUNT: Đếm các ô có giá trị số
-Cú pháp = COUNT(Danh sách các giá trị)
-Ví dụ        = COUNT(C5:C10)
= COUNT(C5:C10,B5:B10)
1.7. Hàm SUMIF: Tính tổng có điều kiện
-Cú pháp =SUMIF(Vùng điều kiện, Điều kiện, Vùng tính tổng)
1.8. Hàm COUNTIF: Đếm có điều kiện
-Cú pháp =COUNTIF(Vùng điều kiện, Điều kiện)
-Ví dụ        =COUNTIF(C5:C10,Nam”)
2. Các hàm toán học
2.1. Hàm ABS: Tính giá trị tuyệt đối của một số
-Cú pháp =ABS(N)
-Ví dụ        =ABS(C5)
2.2. Hàm SQRT: Khai căn bậc hai của một số
-Cú pháp =SQRT(N)
-Ví dụ        =SQRT(C5)
2.3. Hàm INT: Lấy phần nguyên của một số
-Cú pháp =INT(N)
-Ví dụ        =INT(C5)
=INT(10.4) ->10
2.4. Hàm MOD: Cho biết số dư trong phép chia số nguyên
-Cú pháp =MOD(M,N) Có nghĩa M chia cho N
-Ví dụ        =MOD(C5,4)
2.5. Hàm ROUND: Làm tròn giá trị số
-Cú pháp = ROUND(Biểu thức số, n)
-Ví dụ        = ROUND(C5,1)
= ROUND(1.46,1) -> 1.5
3. Các hàm thời gian
3.1. Hàm NOW: Trả lại ngày tháng năm và giờ hiện hành của hệ thống
-Cú pháp =NOW()
3.2. Hàm DAY: Trả lại giá trị ngày của dữ liệu kiểu ngày tháng
-Cú pháp =DAY(Dữ liệu kiểu ngày)
-Ví dụ        =Day(C5)
3.3. Hàm TODAY: Trả lại giá trị ngày tháng năm hiện hành của hệ thống
-Cú pháp =TODAY()
3.4. Hàm MONTH: Trả lại giá trị tháng của dữ liệu kiểu ngày tháng
-Cú pháp =MONTH(Dữ liệu kiểu ngày)
-Ví dụ        =MONTH(C5)
3.5. Hàm YEAR: Trả lại giá trị năm của dữ liệu kiểu ngày tháng
-Cú pháp =YEAR(Dữ liệu kiểu ngày)
-Ví dụ        =YEAR(C5)
4. Các hàm về ký tự
4.1. Hàm LEFT: Trả lại N ký tự từ bên trái của xâu ký tự
-Cú pháp =LEFT(xâu ký tự,N)
-Ví dụ        =LEFT(C5,2)
4.2. Hàm RIGHT: Trả lại N ký tự tính từ bên phải của xâu ký tự
-Cú pháp =RIGHT(xâu ký tự,N)
-Ví dụ        =RIGHT(C5,2)
4.3. Hàm LEN: Đếm số chữ cái trong xâu
-Cú pháp =LEN(Xâu ký tự)
-Ví dụ        =LEN(C5)
4.4. Hàm VALUE: Chuyển xâu ký tự về dạng số
-Cú pháp =VALUE(Xâu ký tự số)
-Ví dụ        =VALUE($1,000) -> 1,000
4.5. Hàm LOWER: Chuyển xâu ký tự thành chữ thường
-Cú pháp = LOWER(Xâu ký tự)
-Ví dụ        = LOWER(“Hà Nội”) -> hà nội
4.6. Hàm UPPER: Chuyển xâu ký tự thành chữ hoa
-Cú pháp = UPPER(Xâu ký tự)
-Ví dụ        = UPPER(“Hà Nội”) -> HÀ NỘI
4.7. Hàm PROPER: Chuyển các ký tự đầu của mỗi chữ thành chư hoa
-Cú pháp = PROPER(Xâu ký tự)
-Ví dụ        = PROPER(“hà nội”) -> Hà Nội
5. Các hàm logic
5.1. Hàm AND: Trả về giá trị đúng thỏa nãm đồng thời các biểu thức logic
-Cú pháp =AND(Biểu thức logic 1, Biểu thức logic 2,…)
5.2. Hàm OR: Trả về giá trị đúng khi thỏa mãn ít nhất một trong các biểu thức logic
-Cú pháp =OR(Biểu thức logic 1, Biểu thức logic 2,…)
5.3. Hàm NOT: Trả về giá trị phủ định của một biểu thức logic
-Cú pháp =NOT(Biểu thức logic)
5.4. Hàm IF: Sử dụng khi có nhiều điều kiện lựa chọn, trả về một trong hai giá trị tùy theo điều kiện TRUE hoặc FALES
-Cú pháp =IF(Biểu thức điều kiện, Giá trị đúng, Giá trị sai)
-Ví dụ        =IF(C5<5,”Thi Lại”,“”)
6. Các hàm tùy biến
6.1. Hàm VLOOKUP: Tìm giá trị đầu tiên của bảng và trả về một giá trị của dòng tìm thấy trên cột được chỉ định trong hàm.
-Cú pháp = VLOOKUP(Giá trị tìm, Bảng tham chiếu, Cột lấy giá trị, Cách
tìm)
-Ví dụ        = VLOOKUP(C5,C10:D13,2,0)
6.2. Hàm HLOOKUP: Tìm giá trị đầu tiên của bảng và trả về một giá trị của dòng tìm thấy trên hàng được chỉ định trong hàm.
-Cú pháp = HLOOKUP(Giá trị tìm, Bảng tham chiếu, Cột lấy giá trị, Cách
tìm)
-Ví dụ        = HLOOKUP(C5,C10:D13,2,0)
File Bài tập ĐÍnh kèm: www.mediafire.com/
http://www.mediafire.com/?2ufken7tiyvgitt

Thứ Ba, 2 tháng 4, 2013

Học về lấy nét AiAF và đo sáng servo

Hôm nay lang thang tìm vài bài về đo sáng và lấy nét tham khảo và rút ra vài điều sau(còn thử nữa xem có ok không)
1. Iso nên để 400 trời râm, 200 trời nắng, trong nhà nên để 400 hoặc 800, nếu chủ thể di chuyển hoặc cần chớp khoảng khắc thì mới chuyển sang 800 hoặc 1600
2. Đo sáng chụp toàn cảnh thì để đo bình thường, chụp chủ thể nổi bật hoặc chụp chủ thể tương phản yếu sáng thì để đo trung tâm, nếu cần đo chính xác thì  để đo điểm- kỹ thuật khóa sáng và aiaf có thể hiệu quả? có thể xem lại kết quả bố cục sáng và thông số máy khi điều chỉnh các chức năng từ đó rút kết luận- đôi khi để rõ chủ thể thì bố cục sáng có thể lệch
3. Thường nếu chụp nên để chế độ lấy nét tự động lấy nét aiaf 
4. Cuối cùng là canh chụp tự nhiên và bố cục hoàn chỉnh, luyện tay nào.

Đo sáng - 11:14:46 AM | 04/06/2012
http://www.vapa.org.vn/NewsData/pic/Do%20sang%2010.gif
Khi chụp ảnh, việc đầu tiên là máy phải đo mức độ ánh sáng để tính toán sự phơi sáng thích hợp. Thông thường, ánh sáng trong các trường hợp khác nhau có thể ảnh hưởng không tốt đến sự phơi sáng của chủ thể. Ví dụ, môi trường ánh sáng mạnh có thể khiến máy phơi sáng yếu làm chủ thể bị tối và các vùng xung quanh tối hơn hoặc máy phơi sáng quá mức khiến chủ thể bị dư sáng trong khi các vùng xung quanh bị tối. Vì vậy, đôi khi nên đặc biệt sử dụng các kỹ thuật đo sáng thông dụng sau:
Đo sáng bên ngoài chủ thể
Nếu bạn sử dụng bất kỳ kỹ thuật đo sáng nào được trình bày ở đây để chụp các chủ thể quá tối hay quá nhạt màu nhưng lại chiếm phần lớn khung hình thì sẽ khiến máy cố phơi sáng chủ thể cho thích hợp nhưng lại giảm ánh sáng hay làm dư sáng quá mức phần hậu cảnh xung quanh. Để khắc phục điều này, bạn hãy đo sáng ở những điểm sáng trung tính. Ví dụ, những mái vòm trắng của nhà hát Sydney đang trắng xóa dưới ánh sáng mặt trời nên máy ảnh sẽ chỉnh độ phơi sáng thấp xuống nhằm điều hòa ánh sáng của mái vòm nếu chúng ta không áp dụng phương pháp này.
 http://www.vapa.org.vn/uploads/image/Thang%206_2012/ngay%203/Do%20sang%201.gif
Đo sáng đa điểm – Multi Segment Metering
http://www.vapa.org.vn/uploads/image/Thang%206_2012/ngay%203/Do%20sang%202.gifhttp://www.vapa.org.vn/uploads/image/Thang%206_2012/ngay%203/Do%20sang%203.gif  
Còn được gọi bằng các thuật ngữ như multi-zone, matrix hay evaluative metering. Kỹ thuật này chia khung hình thành nhiều phần rồi đo ánh sáng trong từng phần. Sau đó, máy sẽ chọn độ phơi sáng thích hợp nhất để vừa điều hòa được các vùng tối lẫn các vùng sáng. Kỹ thuật đo sáng đa phần này là kỹ thuật tinh vi nhất trong mọi kỹ thuật đo sáng. Kỹ thuật đo sáng đa phần lấy thông số trong tất cả các vùng ánh sáng của lưới tổ ong. Kỹ thuật này thích hợp trong mọi trường hợp, nhất là khi chụp phong cảnh.
Đo sáng trung tâm - Center Weighted Metering
http://www.vapa.org.vn/uploads/image/Thang%206_2012/ngay%203/Do%20sang%204.gifhttp://www.vapa.org.vn/uploads/image/Thang%206_2012/ngay%203/Do%20sang%205.gifhttp://www.vapa.org.vn/uploads/image/Thang%206_2012/ngay%203/Do%20sang%206.gif
Kỹ thuật này đo ánh sáng từ toàn bộ khung hình nhưng chú trọng phần chính giữa. Kỹ thuật này hỗ trợ tốt nhất khi người chụp muốn tập trung vào chủ thể ở giữa khung hình hơn các phần xung quanh. Kỹ thuật này rất hữu dụng khi chụp chân dung hay các chủ thể có ánh sáng đều với những vùng xung quanh. 
Đo sáng điểm – Sport Metering
http://www.vapa.org.vn/uploads/image/Thang%206_2012/ngay%203/Do%20sang%207.gifhttp://www.vapa.org.vn/uploads/image/Thang%206_2012/ngay%203/Do%20sang%208.gifhttp://www.vapa.org.vn/uploads/image/Thang%206_2012/ngay%203/Do%20sang%209.gif   
Kỹ thuật này chỉ đo sáng trong một vùng nhỏ chính giữa khung hình. Kỹ thuật này hữu dụng trong những cảnh có độ tương phản cao như khi chủ thể bị rọi sáng hay khi có ánh sáng nghịch mạnh. Nó đặc biệt hữu dụng để quyết định độ phơi sáng trong một vùng rất nhỏ và đặc biệt. Bạn phải rất tỉ mỉ để xác định vị trí vùng chọn nếu không sẽ đo sáng sai. 
Giá trị phơi sáng (EV) 
Người chụp ảnh thường bị bối rối với quá nhiều con số về trị số khẩu độ và tốc độ màn trập, thế nhưng giá trị phơi sáng được trình bày dễ dàng hơn với số nguyên. Mỗi giá trị phơi sáng tương ứng với một lượng phơi sáng cụ thể hay một lượng ánh sáng chạm đến bộ phận ghi nhận ảnh trong suốt thời gian phơi sáng. Giá trị này phụ thuộc vào tốc độ màn trập, khẩu độ và độ nhạy bắt sáng. Mỗi giá trị phơi sáng cũng tương ứng với các kết hợp giữa những tốc độ màn trập và khẩu độ khác nhau cho cùng một giá trị phơi sáng giống nhau.
Bảng giá trị phơi sáng (ở ISO 100)
http://www.vapa.org.vn/uploads/image/Thang%206_2012/ngay%203/Do%20sang%2010.gif 
Ở bảng trên, với ISO 100, tốc độ màn trập 1/8 và khẩu độ f/2,8 cho cùng giá trị phơi sáng là 6 so với cặp tốc độ màn trập 1giây và khẩu độ f/8. Tương tự, với ISO 100, giá trị phơi sáng 15 có thể là 1/250 với f/11, 1/125 với f/16, 1/60 với f/22, hoặc các cặp kết hợp cho cùng giá trị khác. Bạn cũng có thể thấy rằng nếu tăng giá trị phơi sáng thêm 1 thì sẽ giảm một nửa lượng ánh sáng đi qua trong khi giảm giá trị phơi sáng xuống 1 thì lượng ánh sáng chạm vào bộ phận ghi nhận hình ảnh sẽ tăng gấp đôi.
Sự bù trừ giá trị phơi sáng (EV Compensationn - EVC)
Máy ảnh hiện đại ngày nay có bộ phận đo sáng tiên tiến sẽ giúp bạn xác định giá trị phơi sáng chính xác.  Nhưng cho dù máy móc có thông minh đến mức nào thì cũng có những lúc chúng bị nhầm lẫn và không thể cho bạn giá trị phơi sáng như mong muốn. Trong trường hợp này, kỹ thuật bù trừ giá trị phơi sáng được trang bị trong các máy ảnh kỹ thuật số ngày nay sẽ giúp bạn giải quyết vấn đề này. Kỹ thuật bù trừ giá trị phơi sáng cho người chụp điều chỉnh giá trị phơi sáng đa được đo. Tùy máy ảnh mà chế độ bù trừ giá trị phơi sáng có thể từ - 2 EV đến + 2 EV hay - 5 đến +5 EV trong mức bù trừ 0,3 EV hoặc 0,5 EV. Có lẽ để cố trình bày một cách logic với người sử dụng mà chế độ bù trừ giá trị phơi sáng hiển thị trên máy ảnh lại khác so với những gì chúng ta biết ở trên. Như đa đề cập, khi tăng EV lên 1 nghĩa là giảm lượng ánh sáng đến bộ phận ghi nhận hình ảnh. Trên cơ sở đó, người chụp ảnh giỏi sẽ tăng EV lên 1 khi ông muốn chụp một bức ảnh tối hơn. Tuy nhiên, có một sự trái ngược hoàn toàn trên hiển thị của hệ thống đo sáng của máy ảnh. Khi tăng EV trong hệ thống đo sáng của máy nghĩa là tăng độ phơi sáng và khi giảm EV nghĩa là giảm độ phơi sáng.
Chế độ bù trừ độ phơi sáng
Chế độ chụp bù trừ độ phơi sáng (bracketing) là kỹ thuật chụp một loạt nhiều tấm trên cùng một chủ thể với các thiết lập thông số khác nhau để bạn có thể lựa ra tấm ảnh ưng ý nhất. Chế độ chụp bù trừ độ phơi sáng (bracketing) có thể chụp một loạt ảnh với các thông số khác nhau về tốc độ màn trập, khẩu độ, độ nhạy sáng ISO hay các thông số khác để có được kết quả như mong muốn. Nhưng thông thường, khi không đề cập đến các thông số trên thì chế độ chụp bù trừ độ phơi sáng (bracketing) sẽ chụp một loạt ảnh với các mức độ phơi sáng khác nhau. Chế độ này vô cùng quan trọng trong các trường hợp ánh sáng khó chụp. Bạn có thể chụp bằng tay một cảnh ba lần như sau: lần thứ nhất độ phơi sáng được xác định bởi hệ thống đo sáng của máy, lần thứ 2 độ phơi sáng cao hơn một chút và lần thứ 3 độ phơi sáng thấp hơn lần thứ 1 một chút. Nhiều nhiếp ảnh gia chụp một loạt từ 5 đến 7 độ phơi sáng khác nhau để đảm bảo sẽ có được một bức ảnh ưng ý. Điều này đặc biệt thường thấy ở những nhiếp ảnh gia chụp film, họ cần bảo đảm sẽ có một độ phơi sáng hoàn hảo. Nhiều máy ảnh còn có chức năng tự động thay đổi độ bù trừ mức phơi sáng (theo thứ tự các bước và các khung hình bạn đa chọn) khi bạn nhấn nút thả màn trập. 
http://www.vapa.org.vn/uploads/image/Thang%206_2012/ngay%203/Do%20sang%2011.gif
Nếu gặp phải một cảnh rất khó chụp như có ánh sáng nghịch quá chói (thường gây dư sáng) hay một cảnh mà chủ thể bị chìm trong màn tối (thường gây thiếu sáng), thì bạn hãy nhớ dùng mức tăng giảm EV nhỏ hơn hoặc chụp ở chế độ bù trừ độ phơi sáng (bracketing).
Bù trừ độ  phơi sáng bằng đèn Flash
Bù trừ độ phơi sáng bằng đèn flash (FEC) là một chức năng thường thấy trong máy ảnh có đèn flash liền và cả máy có đèn flash rời. Nó cho phép bạn tăng hoặc giảm cường độ các loạt ánh sáng flash phát ra. Một số máy ảnh còn có chức năng chụp bù trừ độ phơi sáng bằng đèn flash cho phép máy tự động chỉnh một loạt độ phơi sáng khác nhau bằng các cường độ ánh sáng flash khác nhau mà không cần thay đổi tốc độ màn trập và/hay khẩu độ. Bạn chỉ cần lưu ý rằng hãy nhớ trả mọi thiết lập bù trừ độ phơi sáng về mức trung bình (là 0) sau khi chụp. Khi cả EVC và FE C được sử dụng thì hiệu quả sẽ tăng chồng lên. Hãy kiểm tra xem bạn đa trả lại mọi giá trị thiết lập hay chưa trước khi cho rằng máy ảnh bị hỏng khi thấy những bức ảnh bị thiếu sáng hoặc dư sáng.
Biểu đồ sáng
Nhiều máy kỹ thuật số ngày nay biểu thị độ phơi sáng của một bức ảnh bằng biểu đồ trên màn hình. Nếu bạn học toán thống kê ở trường bạn sẽ thấy biểu đồ là các bản đồ thị cơ bản thể hiện các tần số được thống kê. Một bức ảnh được tạo thành từ các điểm ảnh có giá trị từ 0 đến 255 để điễn tả độ sáng. Thang giá trị từ 0 đến 255 được lấy làm trục hoành của biểu đồ và trục tung biểu thị số lần các điểm ảnh của mỗi giá trị ở trục hoành xuất hiện trên bức ảnh.
Các trục đo giá trị của biểu đồ
 http://www.vapa.org.vn/uploads/image/Thang%206_2012/ngay%203/Do%20sang%2015.gif
http://www.vapa.org.vn/uploads/image/Thang%206_2012/ngay%203/Do%20sang%2016.gifhttp://www.vapa.org.vn/uploads/image/Thang%206_2012/ngay%203/Do%20sang%2017.gif 
 Vì vậy, một biểu đồ nghiêng về bên trái cho thấy bức ảnh thiếu sáng và tối, trong khi một biểu đồ nghiêng về bên phải cho thấy bức ảnh dư sáng và bị chói sáng. Thông thường, các bức ảnh có biểu đồ thẳng hay hình khối là những bức ảnh có độ phơi sáng hợp lý.
Mặc dù biểu đồ hữu dụng trong việc đo độ phơi sáng nhưng không biểu đồ nào là “tốt” hay “tệ” cả. Một số bức ảnh như hai bức ở trên có biểu đồ nghiêng hẳn về một phía nhưng như bạn thấy đấy, chúng là những bức ảnh hoàn hảo ở mọi góc độ và chủ thể chính đa được thể hiện rất tốt.


Một MAS loại bán chuyên và chuyên thường thiết kế 3 chức năng đo sáng: 


1. Matrix metering: Đo sáng tổng quát. 
Trên khung ngắm được phân khúc thành nhiều vùng với nhiều điểm đo khác nhau. Chip vi xử lý sẽ tổng hợp và chia trung bình cộng để chọn ra một thời chụp tối ưu nhất. 
Cách đo này phù hợp với:



·        Ảnh phong cảnh
·        Ảnh sinh hoạt
·        Ảnh tương đối sáng đều ở mọi vị trí.
2. Center-weighted metering: Đo sáng trung tâm.
Phép đo này sẽ tiến hành đo ngay vòng tròn đường kính 8 mm giữa khung ngắm. 



·        Phép đo trung tâm này thường được các bác nhiếp ảnh chuyên thể loại chân dung ngoài trời đánh giá rất cao.
3. Spot metering: Phép đo điểm phạm vi hẹp.
Đo sáng này xác lập phạm vi đo sáng trong một hình tròn đường kính rất hẹp chỉ khoảng 2-3 mm tâm điểm khung ngắm (khoảng 1% khung hình). 



·        Phép đo này thường được áp dụng khi một chủ đề có hướng chiếu sáng ngược, chính diện bị tối hơn bối cảnh và đòi hỏi cần phải đo sáng với độ chính xác cao.
Ngoài việc chọn chế độ đo sáng của MAS, bạn có thể chọn chế độ chụp BKT (Braketing) - MAS sẽ tự động pắn liên tục ba phát với trị số bù trừ lần lượt là: 0, +1 và -1 EV để bạn dễ chọn một ảnh ưng ý. Như vậy, tùy vào vị trí của hướng chiếu sáng so với chủ đề mà bạn định cho bức ảnh sắp chào đời một phép đo sáng khác nhau.



Bác nào rành về cái mít tơ răng này vào chia sẻ thêm đi ạ.



Có một câu chuyện vui về Metering systems tự động của SLR camera:



15 tay máy sử dụng các loại SLR khác nhau (Nikon, Canon, Pentax, Olympus...) cùng chụp một đối tượng như nhau. Mode chụp thống nhất là ưu tiên tốc độ ở 1/125s, ISO 100. Mode đo sáng tự chọn theo thói quen và đặc thù của riêng mỗi dòng máy.

' alt="[IMG]" class="bbCodeImage LbImage" v:shapes="_x0000_i1025"> 



Và đây là kết quả auto exposure của mỗi người...
[IMG]



...trong khi right exposure là ISO 100, 1/125s, f/16 : không có máy nào cho kết quả đúng cả! :)



valuative Metering
Evaluative metering (đối với Canon và Sigma) còn được gọi là Matrix metering bởi Nikon, honeycomb bởi Sony, ESP bởi Plympus hay segment bởi Pentax. Nhưng cho dù là tên gì đi nữa, Evaluative metering làm việc bằng cách chia hình ảnh thanh nhiều vùng khác nhau như hình 1.



style='orphans: auto;text-align:start;widows: auto;-webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px;word-spacing:0px' alt="[IMG]" class="bbCodeImage LbImage" v:shapes="_x0000_i1026">
Hình 1. Bộ đo sáng của máy ảnh làm việc bằng cách chia nhỏ viewfinder thành nhiều vùng và ước lượng giá trị sáng của các vùng này. Số lượng các vùng không cố định và được quyết định bởi loại máy ảnh của bạn.

Số lượng các vùng biến động rất lớn giữa các loại máy ảnh. Một máy của Sigma có thể chỉ sử dụng 14 vùng khác nhau trong khi có những máy của Nikon sử dụng đến 1005 vùng khác nhau.


Bộ đo sáng đọc giá trị ánh sáng giữa các vùng và tính giá trị trung bình nhằm đưa ra một giá trị phơi sáng (exposure) tốt nhất có thể giữ lại phần lớn thông tin hình ảnh trong khả năng thu nhận của bộ cảm biến (sensor). Đây là một lĩnh vực mà các máy ảnh dSLR thực sự vượt trội so với dòng máy ảnh bỏ túi. Các bộ cảm biến của máy dSLR lớn hơn nhiều, vì thế nó có khả năng ghi nhận khoảng giá trị sáng lớn hơn.




Center-weighted Metering



Center-weightedmetering hướng đến việc đo đạc ánh sáng tại vùng trung tâm của ảnh. Nó cho phép bạn có giá trị chính xác hơn đối với một vùng quan trọng trên ảnh và làm việc tốt khi mà ánh sáng của toàn bộ khung cảnh không thay đổi nhiều. Hình 2 thể hiện một ví dụ của cách đo sáng này.



style='orphans: auto;text-align:start;widows: auto;-webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px;word-spacing:0px' alt="[IMG]" class="bbCodeImage LbImage" v:shapes="_x0000_i1027">
Hình 2. Trong chế độ center-weighted metering, máy ảnh sử dụng vùng trung tâm của viewfinder để quyết định độ phơi sáng

Một biến thể của center-weighted metering là center-weighted evaluative metering, trong đó toàn bộ ảnh đều được xử lý khi quyết định độ phơi sáng nhưng vùng trung tâm của tấm ảnh sẽ được coi trọng hơn khi tính toán giá trị này.



Spot Metering



Spot metering chỉ có mặt ở những máy ảnh tầm trung hoặc các máy ảnh chuyên nghiệp. Chế độ này đo sáng những vùng nhất định trên ảnh, thường chỉ chiếm khoảng 3% của toàn bộ khung hình để quyết định độ phơi sáng. Trên một số máy ảnh, điểm đo sáng được cố định ở chính giữa viewfinder nhưng trên một số máy ảnh khác (như của Canon), bạn có thể thiết lập để bộ đo sáng đọc giá trị này từ bất kì điểm nào được focus. Hình 3 và 4 thể hiện các ví dụ về chế độ này.



[IMG]
Hình 3. Trong nhiều máy ảnh, chế độ spot-metering sử dụng một vùng nhỏ trên viewfinder để tính toán độ phơi sáng. Chế độ này làm việc tốt nhất khi các tình huống ánh sáng phức tạp.
[IMG]
Hình 4. Một số máy ảnh cấp cao như Canon 1Ds Mark II có thể sử dụng bất kì điểm focus nào làm vùng đo sáng. Điểm focus sẽ được hiển thị lên viewfinder với màu đỏ. 
Spot metering là lựa chọn tốt nhất khi một vùng xác định trên ảnh có tính quyết định với việc đo sáng. Một ví dụ của chế độ này là khi bạn chụp hình một ai đó trong điều kiện ánh sáng hậu cảnh quá tối hay quá sáng. Trong tình huống này, evaluative metering sẽ cho ra kết quả over-exposure hay under-exposure đối với chủ đề. Nếu máy ảnh của bạn không có chế độ spot-metering, bạn có thể sử dụng center-weighted metering thay thế. 



Chọn độ phơi sáng (Exposure) phù hợp



Với những lựa chọn trên, làm thế nào bạn có thể chọn cái phù hợp nhất với mình? Điều này phụ thuộc vào hoàn cảnh khi bạn chụp. Chế độ evaluative thông thường là lựa chọn tốt nhất đối với phần lớn mọi tình huống. Mặc dù vậy, đôi khi bạn vẫn cần thay đổi độ phơi sáng mà máy ảnh khuyến cáo để có kết quả tốt hơn. Trong chương này, tôi sẽ bàn đến vẫn đề trong từng tình huống cụ thể, làm thế nào để có thể chọn ra độ phơi sáng thích hợp nhất, tránh những vấn đề đáng tiếc liên quan đến yếu tố này.




Độ phơi sáng được quyết định như thế nào?



Bộ đo sáng trong máy ảnh của bạn làm việc bằng cách đọc ánh sáng được phản chiếu vào bộ bộ cảm biến (sensor). Nó sử dụng thông tin này để tìm ra giới hạn sáng-tối có thể ghi nhận được. Khi bạn sử dụng evaluative metering, máy ảnh sẽ tính giá trị trung bình của các vùng. Hãy nhìn ví dụ trong hình 5.



[IMG]
Hình 5. Ảnh này có đầy đủ 10 mức (stop) trong giới hạn đo sáng - giá trị gần như ở mức cao nhất mà các bộ cảm biến dSLR có thể ghi nhận

Giới hạn đo sáng được gọi là Exposure Value (EV). Một giá trị thấp sẽ cho ra kết quả là ảnh tối hơn. Khi khung cảnh được đánh giá, vùng tối nhất sẽ có giá trị là EV2 trong khi vùng sáng nhất sẽ có giá trị là EV12. Toàn bộ giới hạn này bao gồm 10 mức (stop). Trong ví dụ này, máy ảnh sẽ chọn độ phơi sáng có giá trị là EV7, giá trị nằm giữa EV2 và EV12.



Lưu ý:

·        Bạn có thể tăng chi tiết ghi nhận được bằng cách chụp ở chế độ raw. Mô tả chi tiết về chế độ này cũng như làm thế nào để tận dụng ưu điểm của nó sẽ được bàn đến trong một phần khác.
·        Nếu bộ cảm biến trong máy ảnh của bạn có khả năng quản lý 10 mức giá trị sáng khác nhau, mọi thứ đều tuyệt vời và bạn có một tấm ảnh với đầy đủ chi tiết từ sáng đến tối. Nhưng nếu bạn không thể thu lại đầy đủ giới hạn sáng trong khung hình của mình thì sao?
·        Trong trường hợp này, bạn sẽ muốn độ phơi sáng được tập trung vào những chi tiết quan trọng trên tấm hình. Điều này có nghĩa là nếu bạn muốn chụp chi tiết của những bộ quần áo tối màu, chi tiết trong bóng râm, bạn sẽ cần tăng độ phơi sáng lên. Nếu những đám mây, tuyết hay những vùng trắng là những yếu tố quan trọng trong tấm ảnh của bạn, bạn cần độ phơi sáng thấp trong đó nhưng vùng tối sẽ bị mất bớt đi chi tiết.
·        Máy ảnh số nhạy cảm với những vùng sáng hơn là những vùng tối. Vì vậy phương pháp bình thường đối với độ phơi sáng là để bộ đo sáng đo phần sáng nhất của chủ đề bạn muốn lấy chi tiết. Bạn sẽ dễ dàng phục hồi lại các vùng tối hơn là các vùng sáng với Photoshop CS2 hay Photoshop Elements.
Sử dụng Exposure Compensation


Tất cả các máy ảnh dSLR đều cho phép bạn điều chỉnh giá trị phơi sáng khuyến cáo thông qua một tính năng gọi là exposure compensation. Phụ thuộc vào máy ảnh của bạn, giá trị này có thể thay đổi mỗi 1/2 hay 1/3 stop. Sự bù sáng này làm việc bằng cách thay đổi giá trị phơi sáng khuyến cáo nhiều hay ít hơn trong một tình huống cụ thể. Như trong ví dụ sau, hình 6 được chụp với giá trị phơi sáng mà bộ đo sáng khuyến cáo



[IMG]

Hình 6. Thỉnh thoảng, giá trị phơi sáng khuyến cáo không phải là lựa chọn tốt nhất. Ở tấm hình này, các vùng sáng bị over-exposure.




Thủ thuật



Mỗi khi bạn chụp trong tình huống ánh sáng không ổn định hoặc phức tạp, tôi khuyên bạn nên chụp thử một ảnh để xem trước khi chụp loạt ảnh tiếp theo. Việc này cho phép bạn có thể điều chỉnh ngay lập tức nhằm tránh khả năng phải bỏ đi những tấm hình.



Những vùng sáng nhìn trông sáng hơn là tôi muốn. Vì vậy tôi chụp lại với độ bù sáng là -2/3 nhằm giảm đi lượng ánh sáng trong quá trình phơi sáng. Điều này tương tự như thay đổi khẩu độ hay tốc độ chập nhưng kết quả mang lại sẽ tốt hơn những lựa chọn này. Sau khi điều chiển độ phơi sáng giảm đi 2/3, tôi có được tấm hình như ở hình 4.7. Các vùng sáng trông rõ ràng hơn và nó giống với tấm hình mà tôi nghĩ trong đầu trước khi chụp hơn.



[IMG]
Hình 7. Bằng cách sử dụng exposure compensation, tôi đã giảm độ phơi sáng một giá trị là 2/3 stop. Điều này mang lại chi tiết rõ ràng hơn cho tấm ảnh.

Làm sao bạn có thể biết khi nào exposure compensation là một lựa chọn khôn ngoan? Xét cho cùng, nếu bạn đợi đến khi về nhà, xem lại ảnh trên máy tính thì bạn sẽ có thể phải quay trở lại chụp những tấm hình đó 1 lần nữa khi thấy những điều kì cục trên tấm ảnh của mình. Đây là lúc mà màn hình LCD với biểu đồ (histogram) có thể cho bạn phản hồi ngay lập tức với tấm ảnh của mình.


Trong hình 8, bạn có thể thấy histogram với ví dụ overexposure ở hình 6. Những chi tiết trong các vùng sáng sẽ được đặt ở bên phải của histogram chỉ ra rằng bạn có vấn đề với overexposure.





[IMG]

Hình 8. Đây là histogram với độ phơi sáng khuyến cáo. Bạn có thể thấy rằng những vùng sáng được đặt ở bên phải của histogram, chỉ ra rằng bạn sẽ bị mất chi tiết ở những vùng này.


Sau khi bù sáng với giá trị là -2/3 stop, histogram được chuyển sang trái, cho phép tôi ghi nhận được nhiều chi tiết của các vùng sáng hơn, điều mà tôi đã cố gằng làm trước khi chụp (hình 9)




[IMG]

Hình 9. Sau khi thực hiện exposure compensation, tất cả dữ liệu đều nằm trong giới hạn của histogram.


Nếu bạn phải đối diện với hình huống ánh sáng thay đổi nhanh chóng, bạn có thể sử dụng exposure bracketing. Trên phần lớn các máy ảnh, exposure bracketing sẽ chụp 3 ảnh: một ảnh với độ phơi sáng được giảm bớt, một ảnh với độ phơi sáng chuẩn và ảnh còn lại với độ phơi sáng tăng lên so với độ phơi sáng được máy ảnh tính toán ra. Bạn có thể thiết lập giá trị thay đổi với độ phơi sáng nhưng thông thường tôi chỉ sử dụng các mức tăng giảm là 1/2 stop để đảm bảo rằng những tấm ảnh sẽ có mức phơi sáng chính xác. Việc làm thế nào sử dụng chức năng này bạn có thể xem thêm trong sách hướng dẫn sử dụng máy ảnh của mình. Các hình 10a, 10b và 10c hiển thị 3 ảnh được chụp sử dụng tính năng này.



style='orphans: auto;text-align:start;widows: auto;-webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px;word-spacing:0px' alt="[IMG]" class="bbCodeImage LbImage" v:shapes="_x0000_i1035">

Hình 10a. Với exposure bracketing bạn sẽ chụp được 3 hay nhiều ảnh. Đây là mức phơi sáng đầu tiên, nhỏ hơn mức phơi sáng được khuyến cáo 1/2 stop

[IMG] 

Hình 10b. Mức phơi sáng thức hai trong bộ ảnh là mức phơi sáng được khuyến cáo

[IMG]
Hình 10c. Mức phơi sáng cuối cùng này lớn hơn mức phơi sáng được khuyến cáo 1/2 stop.



Chụp các chủ đề tối



Bởi vì bộ đo sáng trong máy ảnh được thiết lập để lưu lại mọi thứ dựa trên mức sáng trung bình (18% trên thang độ xám), các chủ đề tối đôi khi sẽ trở nên sáng quá khi bạn thử tăng mức sáng trung bình này lên. Để khắc phục điều này, bạn có thể sử dụng exposure compensation, sử dụng chế độ đo sáng spot metering (nếu máy bạn hỗ trợ) hay đo sáng vào vùng có độ sáng lớn hơn.



Phần lớn các máy ảnh đều có khả năng lưu (khóa) lại thông tin về độ phơi sáng và cho bạn phối cảnh lại lại trước khi chụp. Điều này thông thường được thực hiện ở chế độ chụp 1 ảnh một (Single Shot Focus) bằng cách focus vào chủ đề, giữ nguyên nút chụp ở vị trí 1/2 trong khi bạn phối cảnh lại. Lựa chọn khác nếu máy ảnh của bạn có nút khóa exposure, bạn có thể sử dụng nó. Giá trị ghi nhận được sẽ được giữ cho đến khi ảnh được chụp. Vì thế bạn cso thể thay đổi tiêu cự, focus hay phối cảnh lại tấm hình. Khi nút chụp được nhấn và ảnh đã được lưu lại, việc khóa giá trị phơi sáng sẽ bị chấm dứt và bạn sẵn sàng để chụp tấm hình kế tiếp.



Đối với những ảnh có một lượng lớn các vùng tối, điều chỉnh độ phơi sáng có thể lên đến giá trị tương đương 2 khẩu độ (f-stop). Ví dụ trong hình 11, tôi chụp khung cảnh ở giá trị phơi sáng đo được.



[IMG]

Hình 11. Các ảnh tối có thể bị overexposure bởi bộ đo sáng giống như ví dụ bên dưới 

Như bạn thấy, các vùng màu đen có thang độ xám lớn hơn do bộ đo sáng óố gắng đưa những vùng này về gần điểm đo sáng trung bình. Trong hình 4.12, tôi sử dụng độ bù sáng là -1 2/3 (-1.67) stop để những vùng này tôi tối hơn như ảnh gốc

[IMG]
Hình 12. Để những vùng màu đen giữ màu nhưng chúng vốn có, tôi sử dụng độ bù sáng là -1 2/3 stop.



Chụp các chủ đề sáng



Trừ khi bạn là một fan của tuyết có màu xám hay những hình ảnh bị mất màu trắng, thông thường việc chụp các chủ đề sáng cũng yêu cầu phải điều chỉnh độ phơi sáng. Giống như chụp các chủ đề tối, khi bộ đo sáng đánh giá ánh sáng của khung cảnh (một vùng tuyết trắng chẳng hạn), nó sẽ cố gắng thể hiện khung cảnh toàn tuyết trắng ở mức sáng trung bình. Đó là nguyên nhân bức ảnh của bạn trông có vẻ xám đi (hoặc nhìn trông hơi xanh xanh)



Trong hình 13, tôi chụp ở mức phơi sáng được khuyến cáo. Như bạn thấy, các vùng trắng trông không sáng như nó vốn có.



[IMG]
Hình 13. Các khung cảnh sáng cũng có những vẫn đề như các khung cảnh tối. Bộ đo sáng cố gắng để chủ đề chính nằm ở mức sáng trung bình, làm cho những vùng trắng trông bị xám đi.



Bằng cách sử dụng exposure compensation và chụp tấm hình ở mức bù sáng là +2 stop, lớp tuyết trông sáng trở lại trong khi vẫn giữ được nguyên chi tiết.



alt="[IMG]" class="bbCodeImage LbImage" v:shapes="_x0000_i1041">
Hình 14. Bằng cách +2 stop vào độ phơi sáng, các vùng trắng sẽ trở lại như chúng vốn có.



Chụp ảnh với nguồn sáng ở phía sau



Những khung cảnh có nguồn sáng phía sau là những tình huống khó khăn nhất để bộ đo sáng thực hiện chính xác công việc. Thông thường bạn sẽ có một nguồn rất sáng, như mặc trời, đến mức làm tràn ngập bộ đo sáng. Để khắc phục, bộ đo sáng cố gắng đưa những vùng sáng nhất về trong giới hạn thông thường. Điều này sẽ làm cho bạn chỉ nhìn thấy cái bóng đen của người hay của các chủ đề khác.




Thủ thuật



Giải pháp tốt nhất với nguồn sáng ở phía sau là sử dụng đèn flash để giúp chiếu sáng chủ đề.



Trong tình huống này, sử dụng center-weighted hay spot metering là lựa chọn tốt nhất vì bạn sẽ luôn luôn đo sáng chủ đề và loại bỏ phần nền sáng. Hình 4.15 thể hiện một tấm hình được chụp ở mức độ phơi sáng tính ra trong chế độ evaluative metering.



[IMG]
Hình 15. Trong tình huống hậu cảnh quá sáng, bộ đo sáng sẽ bị tràn ngập bởi ánh sáng của hậu cảnh và làm cho chủ đề chính bị under-exposure.


Bằng cách chuyển sang chế độ spot metering, tôi ó thể thay đổi đâu là nguồn sáng chính và kết quả là tấm ảnh như trong hình 16. Độ phơi sáng bị thay đổi đi 3 stop. Mặc dù tôi bị mất chi tiết ở những vùng sáng nhưng tôi lại có thể nhìn rõ chủ đề trong tấm ảnh là gì. 

[IMG]
Hình 16. Bằng cách chuyển sang spot metering, tôi có được độ phơi sáng tốt hơn, cho phép tôi ghi lại chi tiết về chủ đề mặc dù bị mất đi chi tiết ở hậu cảnh.

Khi bạn không thể chuyển sang chế độ đo sáng khác vì một vài lý do nào đó thì đó là thời điểm cho bạn sáng tạo bằng cách sử dụng một kĩ thuật khác. Bạn hãy đo sáng bầu trời mà không có mặt trời trong khung hình (tôi giả sử bạn đang chụp với nguồn sáng phía sau là mặt trời) hoặc đo sáng vào mặt đất. Ngoài ra bạn cũng có thể di chuyển đến gần chủ đề để chủ đề chiếm trọn khung hình, sau đó nhấn 1/2 nút chụp để bộ đo sáng hoạt động. Nếu máy ảnh của bạn có nút khóa exposure, khóa giá trị bạn đo được rồi di chuyển để phối lại lại tấm hình bạn muốn chụp (tất nhiên, nếu không có nút khóa này, bạn sẽ phải giữ nguyên nút chụp ở vị trí 1/2 trong khi di chuyển và phối cảnh).



Bài dịch từ chương 4 - The Digital SLR Guide: Beyond Point-and-Shoot Digital Photography của tác giảJon Canfield

Lê Bảo Minh » Bản tin » Kinh nghiệm chụp ảnh đẹp với Canon PowerShot G1X
Thời gian gần đây, khi khám phá những miền đất mới thu hút, Hải Piano cảm thấy bộ máy ảnh cồng kềnh ngày càng trở ngại. Hành trình dài ngày với chiếc máy quá nặng trên cổ đôi khi làm anh mệt mỏi và dần mất thói quen kiên nhẫn khi chụp ảnh. Anh bắt đầu ước ao có một chiếc máy nhỏ mà chất lượng ảnh gần như máy kỹ thuật số chuyên nghiệp có thể thay ống kính (DSLR), nhưng phải có thiết kế thật chuyên nghiệp.
“Khi nghe đến dòng Canon PowerShot, thường tôi nghĩ đến các dòng máy du lịch. Nhưng lúc cầm trên tay Canon PowerShot G1X, tôi hơi giật mình vì thiết kế đơn giản với đường nét góc canh khá cổ điển, nhiều góc vuông, nhiều vòng xoay điều chỉnh”, Hải Piano chia sẻ.
Cảm giác cầm thân máy kim loại của G1X rất chắc tay và thân quen như cầm máy DSLR. Các chức năng chính của máy được chuyển ra các vòng xoay và nút bấm như máy chuyên nghiệp: nút chỉnh ISO, đo sáng, flash ở ngay trên thân máy, tăng giảm EV trên vòng tròn chức năng. Thao tác chụp khá giống máy ảnh “hầm hố”.
Điểm nổi bật nhất của G1X là sensor APS-C tương đương máy DSLR cho file ảnh chất lượng cao, chi tiết ảnh sắc nét. Công nghệ HS xử lý các hoàn cảnh chụp trong ánh sáng yếu khá hoàn hảo. Người dùng có thể tự tin chỉnh ISO lên 6.400 như máy DSLR chuyên nghiệp mà không bỏ lỡ khoảnh khắc nào cả. Thuận tiện nhất là ống kính có chất lượng quang học khá tốt với độ mở tối đa f2.8 và dải zoom “all in one” 28-112 mm. Ống zoom này đủ để chụp cả một lễ hội hay toàn bộ chuyến đi mà không cần phải quan tâm đến thay ống kính như DSLR. Hệ thống chống rung cho ảnh nét dù chụp tốc độ chậm hơn 4 stops so với bình thường cũng là điểm đặc biệt ở chiếc máy ảnh này.
“Từ khi cầm Canon PowerShot G1X, tôi bắt đầu cảm thấy tĩnh tâm hơn khi chụp ảnh. Máy nhẹ nên thật thong thả, không phải quan tâm nhiều đến vác máy hay thay ống kính. Tôi bắt đầu tập trở lại cảm giác chụp ảnh đơn giản như thời chụp máy film, tính toán kỹ các thông số, tận dụng hết các hiệu ứng của máy và tĩnh tâm hơn để chờ đợi cú bấm máy đúng khoảnh khắc”, Hải Piano tâm sự. Nhờ đó những bức ảnh đẹp từ G1X đã được hoàn chỉnh ngay khi bấm máy. Với anh, G1X như sự giải phóng khỏi đống máy móc nặng nề, bỏ thói quen chụp ảnh quá lạm dụng kỹ thuật của DSLR.
Dưới đây là những bức ảnh đặc sắc được Hải Piano chụp từ Canon PowerShot G1X:
http://www.lebaominh.vn/wp-content/uploads/2012/11/G1X1.jpg

Ráng chiều trên đảo Pangkor, Malaysia. Ảnh chụp bằng Canon PowerShot G1X. Thông số ảnh: 5 giây, f/16, ISO 100, 28 mm.

Hải Piano cho biết, khi chụp bức ảnh này, anh liền nhớ đến câu “Những bức ảnh đơn giản nhất, đôi khi lại khó chụp nhất” của Neil Leifer. Vì một bức ảnh phơi sáng lâu thường nhìn rất giản dị, nhẹ nhàng nhưng nếu không có sự tính trước và trang bị đầy đủ thì khó có thể chụp ảnh phơi sáng được.
Trong trường hợp này, để phơi sáng lâu cho sóng nhòe thì phải giảm tốc độ chụp xuống ít nhất từ 3 đến 5 giây, thậm chí 30. Trong tính năng của G1X có hiệu ứng thú vị là filter ND giúp giảm 3 stops và anh cộng EV trên G1X thêm 2 khẩu độ để tốc độ chụp giảm hơn nữa. Chỉ cần đặt G1X trên chân máy nhỏ, đợi sau khi mặt trời lặn, biển tối dần và ráng chiều rực lên, có thể dùng chức năng hẹn giờ để chống rung máy khi bấm là có bức ảnh phơi sáng 5 giây.
http://www.lebaominh.vn/wp-content/uploads/2012/11/G1X2.jpg

Tháp Pô Klong Garai, Phan Rang. Ảnh chụp bằng máy PowerShot G1X, thông số ảnh: 1/400 giây, f/5.6, ISO 100, 100 mm.

Nếu bằng một máy ảnh du lịch thông thường với sensor nhỏ, khi chụp một cảnh có độ chênh sáng cao giữa ngoài tháp và trong cửa gỗ, chắc chắn là bên ngoài đủ sáng thì cửa gỗ sẽ đen sì và ngược lại. Lúc này sẽ xảy ra trường hợp đủ thấy chi tiết khóa cửa và cửa gỗ, thì chi tiết áo của người phụ nữ Chăm hay phần gạch ngoài tháp sẽ bị dư sáng, mất chi tiết. Nhưng với G1X, nhờ có bộ cảm biến hình ảnh APS-C với dải nhận sáng (dynamic range) khá rộng nên chi tiết phần ngoài tháp lẫn phía trong cửa gỗ vẫn đầy đủ và thấy rõ.
http://www.lebaominh.vn/wp-content/uploads/2012/11/G1X3.jpg

Kualar Lumpur, Malaysia. Ảnh chụp bằng PowerShot G1X, thông số: 1/40 giây, f/3.2, ISO 100, 28 mm.

Với ống kính rộng tương đương 28 mm và độ mở tối đa f2.8, G1X là máy ảnh lý tưởng cho ảnh đời thường. Đặc biệt khả năng cân bằng trắng và thể hiện màu sắc của G1X rất chính xác. Chúng ta có thể thấy màu tím hoa lan, màu hồng cánh sen, màu đỏ… đều được thể hiện rõ nét và không bị ám sắc. Với công nghệ HS của máy, hình ảnh trong trẻo và màu sắc tươi tắn hơn.
http://www.lebaominh.vn/wp-content/uploads/2012/11/G1X4.jpg
Ảnh chụp với PowerShot G1X. Thông số ảnh: 1/100 giây, f/11, ISO 100, tiêu cự 65 mm.
Trường hợp này Hải Piano thử dùng G1X gắn bộ kích hoạt đèn flash với hai đèn hai bên. Một đèn trực tiếp và một đèn dập trần cho ảnh chụp một đĩa kem dâu với màu sắc trong trẻo, rực rỡ. Các màu sắc tách rõ ràng, dù phần đỏ cam chiếm diện tích khá nhiều nhưng các màu khác vẫn không bị ám sắc. Ảnh có độ nét và chất lượng như chụp từ DSLR.
http://www.lebaominh.vn/wp-content/uploads/2012/11/G1X5.jpg

Bến Tri Thủy – Phan Rang. Ảnh chụp bằng máy PowerShot G1X. Thông số: 1/125 giây, f/9, ISO 200, flash.

Khi nhiếp ảnh gia Hải Piano đến bến cá thì mặt trời lên lưng chừng rồi và ngược sáng rất mạnh. Nếu không có bù sáng từ phía người chụp thì mặt và chi tiết các nhân vật trong ảnh sẽ bị tối đen. Anh đã sử dụng flash của G1X để đánh mạnh vào các nhân vật và có được bức ảnh vừa ghi nhận được ánh ban mai vàng rực, vừa rõ màu các nhân vật và rổ cá. Ảnh này cho thấy chất lượng quang học của ống kính gắn ở G1X khá tốt, ánh sáng chiếu ngược quá mạnh nhưng vẫn không bị flare hay xuất hiện những quầng sáng lạ.
http://www.lebaominh.vn/wp-content/uploads/2012/11/G1X6.jpg

Hẻm chợ lồng đèn Phú Định, TP HCM. Ảnh chụp từ PowerShot G1X, thông số: 1/100 giây, f/4, ISO 8.000.

Còn ảnh chụp đèn lồng tuy đơn giản nhưng thực ra phải vận dụng nhiều chức năng của máy để bắt kịp khoảnh khắc này. Bối cảnh là một hẻm tối, chú chủ tiệm vừa bán hàng vừa làm lồng đèn nên di chuyển khá nhanh. Nhờ ISO 8.000, để tốc độ 1/100 giây, G1X “bắt dính” cảnh chú ngồi thụp xuống chiếc đèn đẹp nhất để chỉnh sửa. Công nghệ HS và vi xử lý DIGIC5 cho chất lượng hình ảnh đáng kinh ngạc, ở ISO 8.000 mà chi tiết và màu sắc thể hiện rất tốt, xử lý noise hiệu quả.
http://www.lebaominh.vn/wp-content/uploads/2012/11/G1X7.jpg

Chùa Ngọc Hoàng, TP HCM. Ảnh chụp bằng Powershot G1X, thông số: 1/15 giây, f/5.6, 64 mm, ISO 12.800.

Nhiếp ảnh gia muốn chụp các hoa văn thật sắc nét trên chiếc chuông cổ để làm tư liệu cho bài viết về họa tiết. Nhưng chuông được đặt ở nơi ánh sáng rất yếu và chỗ hoa văn anh muốn chụp lại nằm ở góc tối của chuông. Vì vậy, Hải Piano mạnh dạn dùng ISO 12.800 và tốc độ chụp rất thấp 1/15 giây. Tuy nhiên, hệ thống chống rung thông minh của máy đã giúp ổn định hình ảnh dù tốc độ chụp khá thấp. Một lần nữa khả năng khử noise và dynamic range của G1X thật tuyệt ở ISO 12.600. Chi tiết và màu sắc kim loại đồng vẫn thể hiện tốt. Điều này có nhiều máy DSRL chưa chắc đã thể hiện được.
http://www.lebaominh.vn/wp-content/uploads/2012/11/G1X8.jpg

Chùa Ngọc Hoàng, TP HCM. Thông số ảnh: 1/30 giây, f/5.6, ISO 1.600, chế độ chụp đơn sắc.

Để ghi nhận những tia sáng mạnh từ nóc chùa tỏa xuống những người đang hành lễ, trong không gian cổ kính và trầm mặc, Hải Piano chuyển sang chế độ chụp đơn sắc và dùng tone trắng đen. Chỉnh ISO lên cao một chút cho máy tự động khép khẩu ở khẩu độ an toàn f/5.6 và lấy nét vào những tia sáng. Kết quả là G1X cho một bức ảnh trắng đen với độ tương phản rất tốt, chi tiết vùng sáng và vùng tối đều thể hiện rõ nét dù chênh sáng nhiều. Để có một bức ảnh trắng đen đẹp, với G1X người dùng không phải chụp ảnh màu rồi về dùng phần mềm chuyển sang ảnh trắng đen nữa.
http://www.lebaominh.vn/wp-content/uploads/2012/11/G1X9.jpg

Thông số ảnh: 1/320 giây, f/5.6, ISO 16.000.

Khi ngồi ở một góc đường trung tâm thành phố thì cơn mưa lớn xuất hiện, anh chợt nảy ý tưởng chụp cảnh sinh hoạt sao thấy rõ từng hạt mưa. Muốn vậy thì tốc độ chụp phải trên 1/300 giây. Anh chuyển sang chế độ ưu tiên khẩu độ Tv để chỉnh tốc độ cố định lên 1/320, dùng ISO 1.600 để máy khép khẩu đủ độ nét. Rất may có hai du khách đi ngang qua đường trên nền tối của hàng me, và G1X đã ghi nhận rõ từng hạt mưa rơi.
http://www.lebaominh.vn/wp-content/uploads/2012/11/G1X10.jpg

Lễ mở cửa tháp, Lễ hội Ka Tê Phan Rang. Thông số ảnh: 1/250 giây, f/3.5, ISO 100.

Khoảnh khắc người thầy cúng té nước vào tượng Siva để làm lễ mở cửa tháp là cực nhanh và khó bắt kịp, ngay cả với máy DSLR. Trong biển người hành hương thì chiếc máy có kích thước nhỏ như G1X thật thoải mái di chuyển và chụp ảnh. Nhiếp ảnh gia chuyển máy sang chế độ chụp tốc độ cao High-speed Burst HQ với 4,5 ảnh trên giây và có thể chụp liên tục 6 ảnh. Nhẹ nhàng cầm G1X, Hải Piano đứng chờ thời khắc người thầy cúng té mạnh bát nước và bấm máy. Hệ thống lấy nét thật hoàn hảo, hình ảnh ghi nhận được rất sắc nét và là khoảnh khắc hiếm có trong lễ hội.
Minh Trí

Theo SoHoa

TÌM HIỂU VỀ CHỨC NĂNG AI SERVO – LẤY NÉT ĐỘNG



Nếu bạn là một nhà nhiếp ảnh sử dụng máy ảnh kỹ thuật số Canon, khi bạn chụp ảnh các chủ đề di động, bạn sẽ phải tận dụng chức năng AI Servo của máy ảnh. Bài viết này sẽ giúp bạn tìm hiểu nhanh chức năng này, và cách sử dụng nó một cách hiệu quả.

AI SERVO LÀ GÌ ?



AI Servo là chức năng tiên đoán của hệ thống tự động lấy nét của máy ảnh Canon. Tên đầy đủ của hệ thống này “Trí thông minh Nhân tạo” (Artificial Intelligence) dùng để tiên đoán tốc độ và khoảng cách của chủ đề di động. Hệ thống này giúp bạn có nhiều cơ hội hơn để chụp được ảnh sắc nét khi chủ đề của bạn đang di chuyển với tốc nhanh.



HỆ THỐNG AI SERVO HOẠT ĐỘNG RA SAO ?



Hệ thống AI Servo hoạt động với chức năng cơ bản sau đây :



 Tiên đoán điểm tự động lấy nét : Khi chức năng AI Servo được kích hoạt, nó sẽ tiên đoán tốc độ và hướng di chuyển của chủ đề được chụp ảnh.­
 Kiểm soát cò bấm máy : Trong một loạt ảnh chụp liên tục, nhà nhiếp ảnh sẽ bấm máy tấm ảnh đầu tiên trong loạt ảnh được chup. Sau đó máy ảnh sẽ tự động kiểm soát khoảnh khắc bấm máy của các bức ảnh tiếp theo trong loạt ảnh sẽ chụp.­



Khi chụp ảnh, bạn có thể nhìn thấy hoạt động của chức năng AI Servo trong khung ngắm máy ảnh. Khi bạn ấn nửa cò bấm máy, máy ảnh sẽ truy đuổi theo hướng di chuyển của chủ đề bằng điểm lấy nét hiện hành. Trong quá trình này bạn có thể thấy ống kính máy ảnh tiếp tục lấy nét theo chủ đề.
Trong chế độ AI Servo, bạn có thể báo cho hệ thống tự động lấy nét của máy ảnh biết để truy đuổi chủ đề bằng cách quan sát điểm báo rõ nét trong khung ngắm máy ảnh phía dưới bên phải của khung hình.



http://nikonvn.com/cms1/index.php/dnm_img/show_img/19953



Nếu bạn không nhìn thấy điểm báo rõ nét xuất hiện, tức là lúc máy ảnh đang truy đuổi chủ đề. Nếu điểm báo này nhấp nháy một cách nhanh chóng và liên tục, có nghĩa là hệ thống tự động lấy nét không thể truy đuổi được chủ đề. Điểm này hơi khác biệt so với khi bạn chụp ảnh bằng cách lấy nét từng tấm một (One Shot AF). Trong chế độ One Shot, điểm báo rõ nét sẽ nhấp nháy khi máy ảnh không thể lấy nét được, và điểm này sẽ bật sáng khi máy ảnh khóa lấy nét (focus lock).



Máy ảnh EOS-1D Mark II là chiếc máy ảnh kỹ thuật số Canon đầu tiên được thiết kế hai CPU để thực hiện chức năng tự động lấy nét và xoay ống kính trong quá trình lấy nét.



CPU tự động lấy nét của máy ảnh là một bộ vi xử lý 33 MHz, 32 bit RISC (reduced instruction set) dùng để phát hiện vùng tự động lấy nét và tự động chọn điểm lấy nét. Trong khi đó CPU của máy ảnh là một bộ vi xử lý 32 MHz, 32 bit RISC dùng để kiểm soát sự giao tiếp giữa máy ảnh và ống kính, kiểm soát việc xoay ống kính khi lấy nét, và tính toán để dự đoán điểm lấy nét của chủ đề. Kết quả là việc lấy nét được thực hiện nhanh hơn hệ thống lấy nét của máy ảnh EOS 1D. Chế độ lấy nét One-Shot AF cũng nhanh hơn, và chế độ tự động lấy nét AI Servo cũng đạt được độ chính xác cao hơn.

KỸ THUẬT THỰC HIỆN VIỆC LẤY NÉT BẰNG CHỨC NĂNG AI SERVO.



Trước tiên nếu bạn muốn bức ảnh đầu tiên chụp bằng chức năng AI Servo được sắc nét, bạn phải truy đuổi chủ đề trong thời gian tối thiểu từ 1 – 2 giây trước khi bấm máy. 



Chọn điểm lấy nét :



 Điểm tự động lấy nét đơn (Single AF point) thường cho kết quả tốt hơn khi chụp ảnh một đội vận động viên thể thao trong trường hợp bạn muốn chọn một cá thể trong một nhóm người.­
 Chức năng tự động chọn điểm lấy nét (AFPS : Automatic Focus Point Selection) thường hiệu quả hơn khi chụp ảnh một vận động viên riêng lẻ và chụp ảnh động vật hoang dã như chụp chim thú đang bay nhẩy một cách độc lập.­



Chọn chức năng tùy chọn (Custom Functions) :



1. C.Fn 4-3 : Tùy chọn này thường được các nhà nhiếp ảnh thể thao ưa chuộng vì có nhiều tiện ích như :
 Việc lấy nét được thực hiện bằng cách ấn nút * phía sau máy ảnh thay vì ấn nửa cò bấm máy.­
 Chức năng này cho phép lấy nét độc lập với đo sáng. Đo sáng sẽ được thực hiện vào lúc bạn ấn cò bấm máy.­
 Chức năng này cũng làm giảm nguy cơ cướp cò khi chụp ảnh.­
 Máy ảnh sẽ lấy nét được hiệu quả hơn.­



2. C.Fn 17 : Chức năng này cho phép mở rộng vùng hoạt động của hệ thống lấy nét.
 0 – mặc định – chỉ có điểm tự động lấy nét được chọn là được kích hoạt.­
 1 – Mở rộng vùng bán kính lên nét một nấc xung quanh điểm tự động lấy nét được chọn bằng tay. Bạn có thể kích hoạt tới 7 cảm biến lấy nét xung quanh điểm lấy nét bằng tay. Điều này rất hữu ích khi chụp ảnh các chủ đề ít tương phản.­
 2 – Mở rộng điểm lấy nét lên tới 13 điểm xung quanh điểm lấy nét bằng tay.­



Cài đặt mặc định (0) sẽ giúp cho máy ảnh lấy nét nhanh nhất, nhưng cài đặt 1 và 2 sẽ giúp cho máy ảnh lấy nét được các chủ đề nhỏ bé và có độ tương phản thấp.



KẾT LUẬN.



Như vậy AI Servo là một công cụ rất tiện lợi cho các nhà nhiếp ảnh cần chụp ảnh các chủ đề di động nhanh. Qua bài viết này, chúng tôi hy vọng các bạn đọc có thêm được một tài liệu để làm chủ chiếc máy ảnh của mình. Chúc các bạn thành công.

Lấy nét tự động thông minh AiAF (Auto AiAF) Artificial Intelligent AutoFocus)
Auto focus
Máy ảnh số loại phổ thông có nhiều kiểu dáng đa dạngMáy ảnh số loại phổ thông dành cho những người mới bắt đầu làm quen với máy ảnh số, thích đơn giản, gọn nhẹ, chỉ cần ngắm và chụp (Point and shoot)... Loại máy này có nhiều thông số kỹ thuật nhưng đừng quá quan tâm đến các thông số khác vì bạn hầu như chẳng bao giờ dùng đến chúng, bạn nên chú ý các thông số tối thiểu nên có sau đây:

Kiểu dáng

Tùy theo sở thích mà chọn loại có kích thước nhỏ, nhẹ, có thể cầm trong lòng bàn tay, bỏ vừa trong túi áo hay loại lớn trông giống các máy phim. Tuy nhiên dù chọn loại nào thì các nút phải được bố trí thuận tiện, dễ bấm và nhẹ.

Độ phân giải (Resolution)

Máy ảnh số loại phổ thông hiện nay đều có độ phân giải khá cao, thường trên 10MP (Megapixel). Tuy để in ảnh 10x15cm chỉ cần máy ảnh có độ phân giải 2.1 MP là đủ, nhưng nếu chọn độ phân giải lớn sẽ cho ra những tấm ảnh lớn và rõ nét hơn. 

Cảm biến ảnh (Sensor)

Có 2 loại cảm biến ảnh là CCD và CMOS. Trước đây CCD luôn được chọn vì có chất lượng cao mặc dù đắt tiền, còn CMOS tuy rẻ hơn nhưng do ảnh chụp bị nhiễu hạt (noise) nên ít được chọn. Hiện nay với công nghệ tiên tiến CMOS đang làm cho người dùng có cái nhìn khác hơn về nó, bằng chứng là đã có nhiều máy ảnh số cao cấp sử dụng loại cảm biến CMOS này. 
Đối với máy ảnh số loại phổ thông thì bạn cũng không cần quá quan tâm đến điều này vì chất lượng ảnh của dòng máy ảnh này cũng hạn chế.
dc_normal

Ống kính (Lens)

Ống kính liền với thân máy, có Zoom quang học (Optical) ít nhất là 3x. Zoom quang học cho phép phóng to ảnh muốn chụp (thu gần khoảng cách chụp) mà không làm mất đi chất lượng của ảnh.
Bạn cần lưu ý đến độ Zoom quang học chứ đừng quan tâm đến thông số "Zoom kĩ thuật số" (Digital Zoom) bởi vì Zoom kỹ thuật số chỉ là dùng công nghệ phần mềm, không khác gì khi sử dụng phần mềm xử lý ảnh.
Một số máy được trang bị ống kính góc rộng (Wide-Angle Lens) đây là ống kính có tiêu cự nhỏ nhất thấp hơn 35mm. Máy ảnh được trang bị ống kính này sẽ cho phép người chụp đứng gần mà vẫn lấy được hết cảnh chụp.
Ngoài ra bạn cũng cần lưu ý đến các tính năng khác của ống kính như: VR - Vibration Reduction (Giảm độ rung), IS - Image Stabalization (Ổn định ảnh), SteadyShot (Chống nhòe), Mega O.I.S - Mega Optical Image Stabalizer (chống rung quang học): Đây là những chức năng chống rung giúp giảm độ nhòe của ảnh chụp khi rung tay hoặc Zoom xa mà không có chân chống.

Lấy nét (Focus)

Chức năng nhận diện gương mặt của máy ảnh số
Máy ảnh số loại phổ thông thường chỉ có chế độ lấy nét tự động (Auto, AF). Bạn nên chọn loại nào có chức năng lấy nét thông minh (AiAF - Artificial Intelligent AutoFocus), tự nhận diện khuôn mặt (Face detection), lấy nét đa điểm,... để có thể đáp ứng được nhu cầu chụp đa dạng của mình.
Bạn hãy lưu ý là một số máy ảnh được trang bị đèn hỗ trợ lấy nét (AF assist lamp) để giúp chụp trong điều kiện thiếu sáng. Chế độ lấy nét tự động luôn gặp khó khăn khi chụp ảnh trong điều kiện thiếu sáng, trời tối, trong trường hợp này đèn sẽ phát ra ánh sáng hướng về phía đối tượng được chụp để giúp máy ảnh lấy nét.

Kỹ thuật đo sáng (Exposure)

Máy ảnh số loại phổ thông thường chỉ có chế độ đo sáng tự động (Auto) và một số chế độ định sẵn như chụp ban ngày, ban đêm, trong nhà,... Một số loại còn cho phép tăng giảm (bù trừ) độ phơi sáng.

Chế độ chụp (Shutter Mode)

Chế độ chụp tự động (Auto), chương trình lập sẵn (P) và các kiểu chụp định sẵn (Mode) như trong nhà, ngoài trời, ban đêm, chân dung... các chế độ này giúp bạn có được những tấm ảnh ưng ý trong các điều kiện chụp khác nhau.
Một số mày ảnh được trang bị tính năng iAuto, đây là chế độ "chụp ảnh tự động thông minh" với chức năng này người dùng sẽ không còn bận tâm về các thông số chụp nữa, máy sẽ tự động nhận biết để thiết lập các thông số theo điều kiện môi trường, ánh sáng, khoảng cách...
Ngoài chức năng chụp ảnh, máy ảnh số loại này còn cho phép quay phim.

Đèn Flash

Máy ảnh số đều được trang bị đèn Flash giúp chụp trong điều kiện thiếu sáng, chụp ban đêm, trong nhà,... đèn flash này chỉ đủ sáng trong phạm vi từ 3 đến 4 mét.

Màn hình (LCD Monitor)

Máy ảnh số được trang bị nàn hình tinh thể lỏng để giúp người sử dụng có thể dễ dàng quan sát khung ảnh trước và sau khi chụp, màn hình này có kích thước ít nhất 1.8", các máy hiện nay đều có kích thước màn hình trên 2.5". Một số loại còn được trang bị màn hình cảm ứng chạm tay.
Ngoài ra bạn cũng dễ dàng nhìn thấy các thiết lập thông số, chế độ chụp,... được hiển thị trên màn hình.

Thẻ nhớ (Memory card)

Máy ảnh số lưu trữ ảnh trong các thẻ nhớ, tùy theo máy ảnh mà chúng sử dụng các loại thẻ nhớ khác nhau. Một số máy có thể hỗ trợ nhiều loại thẻ nhớ. 

Kết nối (Connection)

Hầu hết máy ảnh số đều cho phép kết nối với máy vi tính thông qua cổng USB. Một số khác còn cho phép kết nối với màn hình Tivi để xem ảnh hoặc phim được quay từ máy ảnh số.

Pin (Battery)

Nên chọn loại sử dụng Pin sạc (Li-ion) và bộ sạc kèm theo máy, loại Pin này có thời gian sạc nhanh. Một số máy sử dụng 2 Pin tiểu (AA) rất mau hết Pin, đối với các máy này thì nên sử dụng Pin sạc (NiMH) có công suất trên 2000mAh.
Pin sạc kèm theo máy ảnh sốnên sử dụng Pin sạc (NiMH) có công suất trên 2000mAh

Phụ kiện kèm theo

Máy ảnh số đầy đủ nguyên hộp thì ngoài máy ảnh ra thường có các phụ kiện kèm theo như: Pin và bộ sạc Pin (nếu sử dụng pin sạc), đây cáp kết nối với máy vi tính, dĩa CD/DVD cài đặt chương trình điều khiển và ứng dụng xử lý ảnh, sách hướng dẫn sử dụng. Ngoài ra bạn cũng cần lưu ý đến các quà tặng khuyến mãi kèm theo như thẻ nhớ, bao đựng máy,... 
Tóm lại, loại máy phổ thông này có thể còn có nhiều chức năng khác nữa, nhưng việc này chỉ làm tăng thêm giá thành của máy ảnh số mà thôi. Sử dụng các chức năng tự động đã là quá đủ, thực tế cho thấy những người sử dụng loại máy này chỉ ngắm và chụp.
Nếu như đến một lúc nào đó bạn cảm thấy các chức năng của loại máy ảnh số phổ thông này không đáp ứng được nhu cầu của bạn thì đó là lúc bạn nghĩ tới một loại máy cao cấp hơn, đó là máy ảnh số loại bán chuyện nghiệp hoặc chuyên nghiệp.